Chiến tranh Iraq – Bài học về tạo cớ gây chiến

Mười năm về trước, lực lượng đa vương quốc do Mỹ đứng đầu giật mình ném bom Iraq rồi cho lục quân vượt biên giới xâm lược nước này và lật đổ chính sách của Tổng thống Saddam Hussein. Cuộc chiến Iraq năm đó còn được gọi là Chiến tranh Vùng vịnh lần 2 ( do Tổng thống Bush con phát động ) để phân biệt với Chiến tranh Vùng Vịnh lần 1 diễn ra năm 1991 ( dưới sự chỉ huy của Tổng thống Bush cha ) .
Nét điển hình nổi bật của đại chiến này là việc Mỹ đã rất thành công xuất sắc trong việc tạo cớ đưa quân vào Iraq. Khi ấy Mỹ một mực khẳng định chắc chắn rằng Iraq vẫn đang chiếm hữu và tăng trưởng vũ khí diệt trừ hàng loạt ( gồm vũ khí hạt nhân, hóa học và sinh học ), đồng thời có liên hệ với tổ chức triển khai khủng bố al-Qaeda. Tất nhiên Mỹ và cả Liên Hiệp Quốc đã không hề tìm thấy dẫn chứng cho điều này ngay trước đại chiến. Dù không nhận được nghị quyết phê chuẩn của Liên Hiệp Quốc ( do thiếu chứng cứ ) và bị quốc tế phản đối, Tổng thống Mỹ George W. Bush vẫn phát động Chiến tranh xâm lược Iraq dựa trên những cáo buộc của mình .
Trong khi đó, Iraq đã gần suy kiệt sau thất bại trong Chiến tranh Vùng Vịnh lần 1 ( bị tới 34 nước do Mỹ đứng đầu đánh cho “ tơi tả ” ) và những lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc sau đó. Thực tế, Iraq từng có chương trình chế bom hạt nhân nhưng chưa tạo ra được 1 quả bom nào và cũng đã từ bỏ chương trình này. Còn vũ khí sinh học và hóa học thì Iraq từng có ( và đã từng sử dụng trong cuộc chiến tranh với Iran ) nhưng sau năm 1991, Iraq đã ngừng tăng trưởng những loại vũ khí này, đồng thời triển khai tiêu hủy chúng. Ngoài ra, trước sức ép của Mỹ và liên minh, Iraq còn hủy hoại dần kho tên lửa của mình trong nỗ lực tránh rủi ro tiềm ẩn nổ ra cuộc chiến tranh – một điều Iraq không hề mong ước trong toàn cảnh quốc gia đang rất là kiệt quệ và bị cấm vận .

Mặc dù Iraq đã tỏ ra hợp tác và đã phải rất “ khổ sở ” nỗ lực chứng tỏ mình “ chẳng hề có ” vũ khí diệt trừ hàng loạt, Mỹ vẫn không “ đoái hoài ” và cuộc chiến tranh đã xảy đến. Điều trớ trêu là sau khi đã tiến quân vào Iraq và hạ bệ được ông Saddam Hussein, Mỹ và liên minh của mình vẫn không tài nào tìm được vũ khí diệt trừ hàng loạt ở đây để biện minh cho đại chiến .
Đến năm 2008, khi sắp sửa kết thúc nhiệm kỳ tổng thống của mình, ông Bush đã thú nhận trên kênh truyền hình ABC ( được tờ Guardian dẫn lại ) rằng quyết định hành động thực thi cuộc chiến tranh chống lại Saddam Hussein đã dựa trên tin tức tình báo sai và đây là điều hụt hẫng lớn nhất trong đời làm tổng thống của ông. Dẫu vậy, ông vẫn bảo vệ quyết định hành động để lại quân Mỹ ở Iraq ( phải đến năm 2011 quân Mỹ mới rút hết khỏi vương quốc này ). Sang năm 2009, đến lượt Thủ tướng Anh Tony Blair, liên minh thân cận của Mỹ trong Chiến tranh Iraq, thừa nhận trên Đài truyền hình BBC rằng dù cho Iraq năm 2003 không có vũ khí diệt trừ hàng loạt thì ông vẫn ủng hộ đại chiến nhằm mục đích vô hiệu Saddam Hussein .
Vì những điều này mà nhiều người coi Chiến tranh Iraq 2003 thực ra là 1 đại chiến vì dầu mỏ, trong đó Mỹ-Anh muốn dựng lên 1 chính phủ nước nhà thân họ và sẵn sàng chuẩn bị cho những công ty Mỹ và Anh vào khai thác nguồn tài nguyên dầu khí nhiều mẫu mã của vương quốc Trung Đông này .
Để đánh Iraq, người ta lấy cớ vũ khí diệt trừ hàng loạt. Khi đánh xong rồi và không tìm thấy vũ khí tiêu diệt hàng loạt ( trừ 1 số ít không đáng kể bị vứt bỏ và sót lại từ trước năm 1991 ), cũng không có ai phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm hay bị “ giải quyết và xử lý ” vì những thông tin sai và những hành vi võ đoán cả. Chỉ có một thực tiễn : Chủ quyền 1 vương quốc bị xâm phạm một cách thuận tiện, Tổng thống nước này bị lật đổ và xử tử, còn người dân Iraq thì phải hứng chịu bao khổ đau do cuộc chiến tranh gây ra. Tất cả đều là sự đã rồi .
>> Xem thêm: Hậu khủng bố 11/9, Mỹ tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa

Tổng thống George W. Bush vào tháng 10/2002 ký khoản chi 355 tỷ USD cho quốc phòng. Lầu Năm Góc được nhận 40 tỷ USD trong số này trong quy trình tiến độ chuẩn bị sẵn sàng cho đại chiến với Iraq .
Ngày 5/2/2003, Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell phát biểu trước Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, cáo buộc Iraq tàng trữ vũ khí diệt trừ hàng loạt, nhằm mục đích chuẩn bị sẵn sàng “ hiên chạy dọc ” cho cuộc xâm lược sắp xảy ra .
Ngày 20/3/2003, không hề tuyên chiến, Liên quân gồm Mỹ, Anh và 1 số ít nước giật mình tiến công Iraq. Chiến dịch “ Tự do Iraq ” khởi đầu bằng những loạt bom sấm sét để dọn đường cho lục quân tiến vào Iraq .
Do đã suy yếu từ trước nên dù nỗ lực, quân đội của Tổng thống Saddam Hussein đã không hề trụ vững. Sử dụng vũ khí tân tiến và kế hoạch tác chiến sẵn sàng chuẩn bị kỹ càng, lực lượng đa vương quốc do Mỹ đứng đầu đã nhanh gọn thọc sâu, hủy hoại những tiềm năng quân sự chiến lược và nhiều sinh lực đối phương. Liên quân có hiệu suất chiến đấu cao và tỷ suất thương vong thấp hơn hẳn .
Trước những đòn trời giáng, quân đội Iraq nhanh chóng tan rã. Ngày 9/4, Baghdad thất thủ khi quân Mỹ chiếm được dinh Tổng thống Iraq và các bộ, rồi kiểm soát toàn thành phố, chấm dứt thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Saddam Hussein. Ông Saddam Hussein sau đó biến mất (đến cuối năm 2003 ông này mới bị bắt giữ khi đang lẩn trốn, và sang năm 2006 thì bị xét xử và treo cổ). Đầu tháng 5/2003, Tổng thống Bush phát biểu khẳng định nhiệm vụ đã hoàn thành.

Tuy nhiên đại chiến không kết thúc ngay lúc đó, kể cả sau này khi đã xây dựng được nhà nước chuyển tiếp vào năm 2005 và 1 chính phủ nước nhà thường trực vào năm 2006. Sự sụp đổ của chính quyền sở tại Saddam Hussein đã kéo theo thực trạng không ổn định lê dài ở quốc gia này. Các nhóm từng bị chính quyền sở tại Saddam trấn áp nay trỗi dậy. Lực lượng của chính sách cũ phản công lại. Xung đột giáo phái và sắc tộc ngày càng tăng. Các chiến binh chiến đấu kinh khủng chống lại lực lượng chiếm đóng, và những tổ chức triển khai khủng bố nhanh gọn tham gia, biến nơi đây thành 1 ‘ thiên đường ’ khủng bố. Đất nước Iraq trong quy trình tiến độ 2003 – 2011 được đặc trưng bởi những cuộc nổi dậy, những vụ ám sát, và đặc biệt quan trọng là những vụ đánh bom liều chết với tần suất và mức độ tàn tệ chưa từng có tiền lệ, không hề “ thua kém ” ở Palestine, Afghanistan hay Pakistan. Trước 2003 không hề có thực trạng này .
Loạt ảnh dưới đây ghi lại những diễn biến chính của cuộc Chiến tranh Iraq bắt đầu từ năm 2003:

Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell giơ 1 chiếc lọ con mà ông nói có khả năng mang bệnh than, khi ông này trình bày với Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc về bằng chứng cáo buộc Iraq tiến hành chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt (ảnh AP chụp ngày 5/2/2003)

Tổng thống Iraq Saddam Hussein (giữa) nói chuyện với sĩ quan lực lượng tinh nhuệ Vệ binh Cộng hòa ở Baghdad ngày 1/3/2003. Iraq đã bắt đầu phá hủy các tên lửa al-Samoud 2 của mình theo lệnh của Liên Hợp Quốc, và cũng đã đồng ý với các thanh sát viên vũ khí về lịch trình dỡ bỏ toàn bộ chương trình tên lửa của nước này (ảnh: INA)

Thủy quân lục chiến Mỹ thuộc Tiểu đoàn 2, chuẩn bị sẵn sàng sau khi nhận lệnh vượt biên giới Iraq từ phía bắc Kuwait vào ngày 20/3/2003 (ảnh: Getty Images)

Lính không quân Anh đợi trong boong-ke, mặc bộ đồ phòng chống vũ khí sinh học và hóa học sau khi có cảnh báo về 1 cuộc tấn công bằng tên lửa Scud vào căn cứ của họ ở Kuwait hôm 20/3/2003 (ảnh: Reuters)

Một đoàn xe tải quân sự và xe thiết giáp thuộc nhóm chiến đấu Lữ đoàn 3 Sư đoàn Không vận 101 chuẩn bị xâm nhập vào lãnh thổ Iraq hôm 21/3/2003 (ảnh: Lục quân Hoa Kỳ)

Binh lính Lữ đoàn 3 Sư đoàn Không vận 101 Mỹ nghỉ ngơi trong các hố cá nhận cạnh đoàn xe của mình tại 1 điểm tập kết trong sa mạc Kuwait ngày 21/3/2003 (ảnh: AP)

Một nhân viên phụ trách đạn dược quan sát các dãy bom trên Hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk ở bắc vịnh Persian vào ngày 30/3/2003. Phi cơ của tàu sân bay này thực hiện tổng cộng 104 phi vụ trên bầu trời Iraq vào ngày 29/3, và đã ném bom xuống các mục tiêu như các trận địa phòng không, một chuyến tàu hỏa chở xe tăng, và một trận địa tên lửa đất đối không (ảnh: Reuters)

Khói che phủ dinh Tổng thống Saddam Hussein trong vụ oanh tạc Baghdad ồ ạt do Mỹ chỉ huy vào ngày 21/3/2003. Lực lượng đa quốc gia đã không kích một cách mau lẹ và dữ dội, tạo nên các quả cầu lửa và những tiếng nổ inh tai cùng với các đám mây khói bên trên trung tâm thành phố. Tên lửa đã lao thẳng vào khu vực chính trong dinh Tổng thống bên bờ sông Tigris cũng như các tòa nhà khác của chính phủ (ảnh: Getty Images)

Một vụ nổ làm rung chuyển Baghdad trong đợt không kích ngày 21/3/2003. Các vụ tấn công vào ngày này vượt xa các vụ tấn công vào hôm trước (ảnh: Reuters)

Chiến xa Anh lướt qua các giếng dầu đang bốc cháy ở Nam Iraq vào ngày 20/3/2003 (ảnh: Reuters)

Thủy quân lục chiến Mỹ phóng tên lửa vác vai Javeline trong 1 trận đánh với quân Iraq tại khu vực cảng Umm Qasr ngày 23/3/2003 (ảnh: London Times)

Thủy quân lục chiến Mỹ(Sư đoàn 1) bắn trả sau khi bị tấn công bằng đạn cối ở nam Baghdad ngày 26/3/2003 (ảnh: AP)

Khói cuộn lên từ 1 tòa nhà trúng bom trong đợt không kích của lực lượng đa quốc gia ở Baghdad, ngày 31/3/2003 (ảnh: AP)

Bộ trưởng Thông tin Iraq Mohammed Saeed al-Sahaf lên truyền hình hôm 1/4/2003 để đọc thông điệp của Tổng thống Saddam Hussein gửi dân chúng Iraq, kêu gọi họ chiến đấu chống quân Mỹ-Anh hễ khi nào họ phát hiện ra đối phương (ảnh: Truyền hình Iraq)

Một bức tượng của Tổng thống Saddam Hussein, tại phủ tổng thống, bị hư hại do cuộc không kích do Mỹ chỉ huy ở Baghdad ngày 23/3/2003 (ảnh: Reuters)

Một chiến xa bọc thép của Anh húc đổ bức tường có tranh của Tổng thống Saddam Hussein ở thành phố Basra, miền Nam Iraq vào ngày 24/3/2003 (ảnh: Reuters)

Binh sĩ Iraq bị thủy quân lục chiến Mỹ bắt giữ sau trận đọ súng ở đại bản doanh các sư đoàn bộ binh cơ giới 51 và 32 của Iraq (ảnh AP chụp ngày 21/3/2003)

Dân thường Iraq kêu gào xin giúp đỡ khi họ bị kẹt giữa làn đạn đôi bên trong lúc một đại đội thủy quân lục chiến Mỹ tiến sâu về nam Iraq để chiếm cảng Umm Qasr vào ngày 21/3/2003 (ảnh: Reuters)

Trực thăng của Thủy quân lục chiến Mỹ tuần tiễu trên bầu trời Baghdad hôm 13/4/2003 (ảnh: Reuters)

Tổng thống George W. Bush giơ ngón tay cái vẻ chiến thắng trên tàu sân bay Abraham Lincoln ngoài khơi bang California (Mỹ) sau khi ông này tuyên bố kết thúc các trận chiến chính ở Iraq hôm 1/5/2003. Dòng chữ tiếng Anh ở phía trên: Sứ mệnh đã hoàn thành (ảnh: AP)

Tuy nhiên, cuộc chiến vẫn tiếp tục. Trong ảnh, khẩu đội 4 thuộc Pháo đội Mike thủy quân lục chiến giao chiến với đối phương trong trận Fallujah thứ 2 vào ngày 11/11/2004 (ảnh: Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ)

Một tòa nhà phát nổ sau khi máy bay Mỹ thả xuống 1 quả bom trong đợt tấn công các mục tiêu nổi dậy ở Najaf, Iraq ngày 19/8/2004 (ảnh: AP)

Xe tăng M1A1 Abrams thuộc Tiểu đoàn tăng số 2 nã pháo đáp trả vào 1 tòa nhà sau khi thủy quân lục chiến bị tấn công ở Fallujah, ngày 16/12/2004 (ảnh: Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ)

Một người dân Iraq cắm hoa vào nòng súng 1 người lính Iraq (thời hậu Saddam) chỉ ít phút trước khi xảy ra vụ tấn công liều chết nhằm vào lễ kỷ niệm Ngày Quân đội ở quận Karradah ở nội đô Baghdad hôm 6/1/2008 (ảnh: AP)

Khoảnh khắc những người lính Iraq (của chế độ mới) nằm chết hoặc bị thương ngay sau vụ tấn công liều chết nói trên hôm 6/1/2008. Hai người lính Iraq đã quăng mình lên trên kẻ đánh bom, nhưng vẫn không kịp – y đã cho nổ chiếc áo chứa chất nổ, giết chết 2 người lính này và 9 người khác. Người dân tặng hoa trong bức ảnh bên trên nằm trong số người tử vong (ảnh: AP)

Một chiếc xe hơi bị các tay súng tấn công, khiến ít nhất 4 người trên xe (gồm 3 người phương Tây) thiệt mạng. Vụ việc xảy ra ở thành phố Mosul, phía bắc Iraq hôm 17/12/2004 (ảnh: Reuters)

Công nhân Iraq dọn dẹp hiện trường 1 vụ đánh bom liều chết đẫm máu ở thành phố Hilla hôm 28/2/2005. Kẻ đánh bom cho nổ tung 1 chiếc xe con đậu gần các tân binh cảnh sát và 1 khu chợ đông đúc, làm 115 người thiệt mạng (ảnh: Reuters)

Một thành viên của tổ chức Code Pink (1 nhóm phụ nữ cánh tả Mỹ vì hòa bình) sơn đỏ bàn tay để phản đối Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice vào ngày 24/10/2007, khi bà Rice đến Quốc hội dự Điều trần của Ủy ban Đối ngoại Hạ viện về chính sách của Mỹ ở Trung Đông (ảnh: AP)

Người dân Mỹ tuần hành từ công viên National Mall tới Lầu Năm Góc ở Washington ngày 17/3/2007 để phản đối chiến tranh Iraq (ảnh: AP)

Cô Kristin Kenney ngồi bên ngôi mộ bạn trai mình, trung sĩ lục quân Dennis Flanagan tại nghĩa trang quốc gia Arlington, Virginia, hôm 25/5/2006. Flanagan tử trận tại Iraq vào ngày 21/1/2006 (ảnh: AP)

>> Xem thêm: Hậu khủng bố 11/9, Mỹ tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa

Đánh giá của bạn
Các bạn nếu không nghe được audio, vui lòng gửi thông báo ở phần bình luận bên dưới. Ad sẽ chỉnh sửa trong thời gian sớm nhất, thanks các bạn nhiều nhiều !

Cấp báo đển quý bạn đọc. Hiện nay, Hẻm cũng đang cũng đang rất cần chút chi phí để duy trì website này, để duy trì kho sách nói quý báu miễn phí cho mọi người, nhất là các bạn trẻ, học sinh, sinh viên. vẫn nghe mỗi ngày.

- - - - - - - - - -

Nhưng quý bạn cũng biết đấy, chúng tôi còn không muốn có không gian quảng cáo nhỏ nào (trừ khi quá bế tắc), mà chủ yếu nương nhờ vào sự hào phóng của những cá nhân như bạn để trả tiền cho các dự án máy chủ, nhân viên và bảo quản dữ liệu, những cuộc tấn công mạng mỗi ngày. Những tặng phí của quý bạn dù nhỏ hay lớn đều cực kỳ ý nghĩa với anh em chúng tôi, thực sự rất lớn, rất có ý nghĩa.

Xem chi tiết dòng tâm sự từ Admin Hẻm Radio, và những kêu gọi khẩn thiết để duy trì website, và Donate tại đây.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button